Thời đại đồ đá ở Việt Nam phát triển qua ba thời kỳ:
đồ đá cũ, đồ đá giữa và cuối cùng là đồ đá mới.
I. Thời đại đồ đá cũ ở Việt Nam
A. Sơ kỳ đồ đá cũ
Ðịa điểm: Núi Ðọ huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Ðặc điểm: Hiện vật nhiều, loại hình nghèo nàn, chế
tác thô sơ gồm mảnh tước, rìu tay, hạch đá, công cụ
chặt thô sơ. Ðây là địa điểm không có tầng văn hóa,
là nơi cư trú, đồng thời là nơi chế tác công cụ.
Niên đại: cách đây từ hai mươi đến ba mươi vạn năm.
B. Hậu kỳ đồ đá cũ
Ðịa điểm đầu tiên: Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú
Thọ nên mang tên Văn hóa Sơn Vi. Hiện diện phân bố
của văn hóa này lan tớI Nam Lạng Sơn, Bắc Giang và
Tây Bắc (hang Nậm Tun, hang Pông)
Ðặc trưng: văn hóa đá cuội, công cụ làm bằng hòn cuội,
được ghè đẽo thô sơ qua rìa lưỡi.
Niên đại khoảng hai đến bốn vạn năm.
II. Thời đại đồ đá giữa: văn hóa Hòa Bình
Người ta đã phát hiện ở hầu hết các địa điểm trong
hang động hoặc dưới mái đá, nhưng phát hiện nhiều
nhất và tập trung thuộc tỉnh Hòa Bình nên gọi là văn
hóa Hòa Bình. Hiện nay trên đất Việt Nam đã phát hiện
hơn một trăm di tích thuộc các tỉnh Hòa Bình, Thanh
Hóa, Nghệ Tĩnh và Thừa Thiên Huế, ở Tây Bắc lên tận
Sơn La, Lai Châu. Ngoài biên giới Việt Nam văn hóa
này đã phát hiện được ở Lào, Căm-pu-chia, Hoa Nam,
Thái Lan, Miến Ðiện, Malaixia và Xumatra (Indonesia).
Kỹ thuật thể hiện xu hướng tiết kiệm ghè đẽo, chỉ
được ghè một mặt hòn cuội, có khi chỉ ghè đẽo một
cạnh hoặc một đầu.
Các loại công cụ phong phú gồm nhiều loại như chầy
nghiền, bàn nghiền, hòn ghè, công cụ hình đĩa, hình
bầu dục hay hạnh nhân, rìu ngắn. Niên đại: trên dưới
một vạn năm.
III. Thời đại đồ đá mới
A. Thời kỳ đồ đá mới
1. Văn hóa Bắc Sơn được phát hiện đầu tiên trong các
hang động đá vôi thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn
nên được gọi là văn hóa Bắc Sơn.
Ðịa bàn phân bố của văn hóa này thuộc các tỉnh Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình.
Ðặc trưng kỹ thuật: vẩn còn nhiều công cụ đẽo, nhưng
kỹ thuật mài lưỡi đã phổ biến, trong đó công cụ phổ
biến nhất là rìu mài phần lưỡi.
2. Văn hóa Quỳnh Văn được phát hiện ở xã Quỳnh Văn
huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An nên được gọi là văn hóa
Quỳnh Văn. Diện phân bố của văn hóa này chạy dọc theo
ven biển huyện Quỳnh Lưu. Những di tích văn hóa này
đã được tìm thấy trong các cồn sò điệp.
Công cụ phổ biến được làm bằng đá thạch anh không
phải bằng cuội như văn hóa Bắc Sơn. Ở những công cụ
này chưa có vết mài mà chỉ là ghè đẽo. Sơ kỳ đồ đá
mới có niên đại cách đây khoảng sáu đến tám ngàn năm.
B. Trung kỳ đồ đá mới (Văn hóa Ða Bút)
Hiệt vật của trung kỳ đồ đá mới được phát hiện ở Ða
Bút tỉnh Thanh Hóa. Kỹ thuật mài đồ đá ở thời kỳ này
đã tiến bộ hơn hẳn kỹ thuật ở sơ kỳ đồ đá mới. Diện
mài của các rìu đã được phát triển rộng lên trên thân
rìu, có khi được mài cả hai mặt rìu; tuy nhiên vẫn
còn vết ghè đẽo. Ða Bút là gạch nối trong quá trình
phát triển từ sơ kỳ sang hậu kỳ đồ đá mới. Niên đại
cách đây khoảng năm ngàn năm.
C. Hậu kỳ đồ đá mới
Ðây là thời kỳ tiến bộ vượt bậc với những công cụ
đá được mài hoàn chỉnh cả hai mặt từ lưỡi đến thân
rìu. Ðây cũng là thời kỳ nẩy sinh và phát triển nền
nông nghiệp dùng cuốc. Bản đồ phân bố dân cư thời
kỳ này lan rộng khắp cả nước từ vùng núi Lạng Sơn,
Sơn La, Quảng Ninh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, Khánh Hòa... Phía Nam các di tích hậu kỳ đồ đá
mới lan tỏa đến các tỉnh cao nguyên như Ðắc Lắc, Lâm
Ðồng; đến các tỉnh đồng bằng như Ðồng Nai, thành phố
Hồ Chí Minh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Rạch Giá, Kiên Giang,
Hà Tiên...
Niên đại cách đây từ bốn ngìn đến bốn ngìn năm trăm
năm.
Tóm Lại, tiến trình phát triển đồ
đá ở Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ từ đồ đá cũ qua
đồ đá giữa đến đồ đá mới. Ðó là quá trình phát triển
liên tục cho đến khi xuất hiện thời đại đồ đồng.