Trên đời có những giá trị vật chất như vàng, bạc mà
cũng có những giá trị tinh thần như tình bạn, tình
yêu. Nhưng giá trị vật chất do thị trường mà quyết
định, còn những giá trị tinh thần là do cá nhân con
người hoặc tập thể cộng đồng đánh giá. Những giá trị
vật chất thường để đếm thành tiền, còn những giá trị
tinh thần thì theo từng cá nhân hoặc cộng đồng lấy
làm quý báu. Nhiều khi những giá trị tinh thần thật
là vô giá.
Cổ vật là đối tượng đặc biệt bao gồm cả giá trị vật
chất, tức giả chất liệu làm nên cổ vật, cũng như giá
trị tinh thần, trong đó có những giá trị như đồ hiếm
quý, cổ kính, mỹ mãn hoặc tinh xảo với hai mặt vật
chất và tinh thần gắn liền đến mức độ khó xét đâu
là vật chất, đâu là tinh thần.
Có trường hợp giá trị vật chất của một món cổ vật
gần như không đáng kể: như một tấm vải lụa mà giới
nghiên cứu lịch sử Mỹ mới phát hiện được trong kho
của một bảo tàng: nhưng, hóa ra đó là lá cờ đã treo
trong nhà hát Ford ở Hoa Thinh Ðốn gần ghế ngồi của
tổng thống Abraham Lincoln trong lúc Lincoln bị ám
sát ngày 14 tháng 4 năm 1865. Do đó, giới sử học Mỹ
nhận định, lá cờ này có giá trị to lớn đối với quốc
dân Hoa Kỳ. Giá trị đó hoàn toàn là giá trị tinh thần,
giá trị căn cứ vào việc lá cờ này đã treo gần người
tổng thống vị đại trong một dây phút lịch sử. Người
Hoa Kỳ cho là “quốc bảo”, nên thế giới cũng thấy rất
có giá trị.
Gốm sứ Chu Ðậu mới được khai vớt từ tàu đắm cổ ngoài
khơi Cù Lao Chàm, Hội An, vừa hiếm quý và cổ kính,
vừa phản ảnh được tinh thần sáng tác phong phú, mỹ
cảm đặc biệt, trình độ kỷ thuật cao và mức độ khéo
tay khác thường của nghệ nhân Việt Nam nhiều thế hệ
trước chúng ta. Ðúng là sản phẩm của một dân tộc có
lịch sử bốn nghìn năm văn hiến. Ngoài giá trị chung
đó “kho tàng Hội An” đối với người Việt Nam nói chung
và đặc biệt là các cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ còn
có giá trị tinh thần gì nữa không?
Các nhà khảo cổ học Việt Nam và nước ngoài đã trực
tiếp tham gia cuộc khai vớt tàu đắm cổ Cù Lao Chàm
đều nhất trí rằng lô hàng gốm sứ này thuộc về khoảng
giữa thế kỷ 15. Một số bát sứ hoa lam Trung Quốc do
thủy thủ mới dùng một thời gian không lâu thì có niên
đại tương đối chính xác: khoảng 1436 – 1464, cho phép
nhận định rằng niên đaị của lô hàng vào khoảng ấy.
Nói chung, giữa thế kỷ và nửa sau thế kỷ 15, thời
các vua Lê Thái Tông (1434 – 1441), Lê Nhân Tông (1442
– 1459) và Lê Thánh Tông (1460 – 1497) là thời kỳ
nước Ðại Viêt, sau khi đã đánh đuổi quân xâm lăng
của nhà Minh, trở nên cực kỳ phát triển và thịnh vượng
về các mặt chính trị kinh tế và văn hoá. Không lấy
gì làm lạ gốm sứ của Chu Ðậu – Mỹ Xá và vùng lân cận
thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay hồi đó được phát triển
đến độ cao và được xuất khẩu khắp vùng Ðông Nam Á
và xa hơn nữa.
Trong số mấy mươi vạn cổ vật vớt lên từ tàu đắm này
có một cái đỉa có hai chử “Việt Quốc”
(bên cạnh còn có mấy chử có lẽ chỉ một vùng cụ thể
nhưng giới nghiên cứu chưa kết luận được là nơi nào)
mà nghệ nhân đã ghi một cách rỏ nét, tiếc rằng chưa
tìm được một món nào nghệ nhân đã ghi niên đại một
cách trực tiếp và rành mạch như đã ghi “địa chỉ” nơi
sản xuất.
Tuy vậy bộ sưu tầm tàu đắm này còn có một món cổ vật
nữa, là cái đỉa có ký hiệu 1676,
mà đã gợi ý một cách gián tiếp một lối di tìm niên
đại chính xác hơn của tàu:
Lòng đỉa đó vẻ một phong cảnh đơn giản với một cây
cổ thụ có một cành to, gió từ phía trái sang phía
phải lòng đỉa, tạo ra khung cảnh cho một góc trời
giữa cảnh và vật. Trên góc trời đó có hai vòng đồng
tâm gàn bằng nhau. Giữa vòng tròn có ghi hai chử Hán
trong một cột: chử “nguyệt” ở trên và chử “nhật” ở
dưới.
Chúng tôi có nhiều lý do để khẳng định rằng: nghệ
nhân đã có ý miêu tả hiện tượng khi mặt trăng đang
che khuất mặt trời, tức là một hiện tượng nhật thực.
Vì tính chất rất đặc biệt của cảnh này trong tất cả
các loại trang trí gốm Chu Ðậu nghi rằng nghệ nhân
đã vẻ cảnh này không lâu sau khi nhật thực đó xảy
ra: trong khoảng một hai năm là cùng. Nên chúng tôi
bắt đầu kiểm tra bộ chính sử Ðại Việt Sử ký Toàn Thu,
phần thế kỷ 15 và 16, để xem có ghi chép trường hợp
nào vừa có nhật thực, vừa có tàu nước ngoài đến buôn
bán và chuyến thương mại ấy lại rất thành công.
Hóa ra chỉ có một trường hợp như thế:
Tháng 11 năm 1435 có nhật thực; tháng 8 năm 1437 thuyền
buồn Xiêm La (tức Thái Lan) tới “sang cống” (là cầu
ước lể chi cả hai mặt ngoại giao và thương mại); tháng
11 cũng năm 1437 vua Lê Thái Tông tiếp sứ giả Xiêm
La, như bộ Ðại Việt Sử ký Toàn Thư đã ghi chép:
“Nước Xiêm La sai sứ là bổn Trại Cương Lat sang
cống. Vua đưa cho sắc thư bảo mang về và trừ cho phần
thuế buôn giảm xuống bằng nửa phần năm trước, cứ 20
phần thứ 1 phần, rồi thưởng cho rất hậu. Ngoài ra,
về phần chúa nước ấy, cho 20 tấm lụa màu, 30 bộ bát
sứ, phần của bà phi nước ấy là 5 tấm lụa màu, 3 bộ
bát sứ, mổi bộ 35 chiếc.”
Phải là một chuyến đi rất thành công thì vua mới tiếp
đoàn sứ giả, phải hết sức thành công về mặt thương
mại nên vua mới cho giảm thuế 50 phần trăm! Nếu giữa
thế kỷ 15 một đoàn nước ngoài mua được trên dưới 300,000
chiếc gốm sứ để xuất khẩu như tàu đắm cổ Cu Lao Chàm
đã cho (một phần bị vỡ trước khi khai vớt)) thì ai
sẽ nói không phải lá thành công vỉ đại?
Như vậy tàu đắm cổ đã cho “ kho tàng Hội An” đúng
là một con tàu lịch sử từ lúc mới tới Việt Nam năm
1437 đến khi được công ty Saga khai vớt năm 1999 với
những phương tiện hiện đại nhất, chưa từng được dùng
trong lịch sử khai quật khảo cổ học dưới nước trên
thế giới. “Kho tàng Hội An” với từng chiếc đĩa, bình,
hộp, lọ, dù là nhỏ nhất và có hoa văn trang trí bình
dị nhất thì đều đã là “nhân chứng” một thời kỳ và
một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam không
kém gì là lá cờ Mỹ mới phát hiện được là “nhân chứng”
đối với lịch sử Hoa Kỳ.
Qua “kho tàng Hội An” chúng ta được trực diện những
hình ảnh trong một buổi tiếp sứ nước ngoài đầy ý nghĩa
đối với nước Ðại Việt mới giành lại độc lập và đang
tìm cách khai thác thời cơ mới khi nhà Minh mới bắt
đầu áp dụng chính sách tỏa cảng đối với các nước hải
ngoại, bỏ hẳn các thị trường rộng lớn ở các nước đó
(1436). Buổi tiếp khách đó có lẽ diễn ra ở cung điện
nhà Lê trong thành Thăng Long: chúng ta có thể hình
dung một người vua còn rất trẻ (Lê Thái Tông, con
Lê Thái Tổ, tức anh hùng dân tộc Lê Lợi, lên ngôi
cách đây 4 năm khi mới 11 tuổi) nhưng trong tấm lòng
cởi mở đã mang một chí lớn. Xung quanh vua có các
bậc lảo thành đã từng theo vua cha tham gia kháng
chiến chống nhà Minh và lập triều đình nhà Lê mới,
trong số đó chắc chắn không thể thiếu được vì chiến
lược và ngoại giao vĩ đại, đại văn hào toàn diện Nguyễn
Trãi mà đúng trong năm đó ông đã khuyên vua: “Kể
ra, đời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng
là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không
thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành.
Hòa bình là gốc của nhạc, thánh âm là văn của nhạc…Xin
bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để chòm xóm không còn tiếng
oán hận buồn than, như thế mới không mất cái gốc của
nhạc.”
Thiết tưởng tất cả những điều đó thuộc giá trị tinh
thần của từng món cổ vật trong “kho tàng Hội An” đối
với mọi người Việt Nam. Còn riêng đối với cộng đồng
Việt Nam ở Hoa Kỳ, từng một món cổ vật từ “kho tàng
Hội An” càng làm cho mọi người sống với lòng tự tin
và tự hào về văn hóa dân tộc của mình: Việt Nam đã
xuất khẩu gốm sứ này ra nhiều nước hải ngoại trước
khi ông Columbus phát hiện châu Mỹ hơn 50 năm trời.
Cổ vật này trong tay của từng gia đình người Việt
Nam ở Hoa Kỳ sẽ luôn luôn giúp cha mẹ trong việc giáo
dục con cái về truyền thống văn hóa vẽ vang của Tổ
Quốc và tổ tiên từ đời này qua đời sau. Là một xã
hội của di dân từ nhiều nước đến, người Hoa Kỳ đã
rút được một kinh nghiệm quan trọng: các cháu đời
thứ ba sinh ra ở Hoa Kỳ thế nào cũng ham muốn tìm
tòi về gốc gia đình và Tổ quốc xã hội của ông bà.
Một món cổ vật trong tay một gia đình Việt Nam ở Hoa
Kỳ thật là vô giá. Cộng đồng Việt Nam càng quý từng
món trong “kho tang Hội An”, thì cả nước Hoa Kỳ sẽ
càng thấy có giá trị.
Một người Việt Nam ở Hoa Kỳ.
(Theo Vietantique)