Địa điểm dừng chân đầu tiên của chúng
tôi là thành phố Venise (đọc theo phiên âm Pháp ngữ)
nổi tiếng của Italia (11/3). Địa danh đầu tiên lại
là một cái tên rất quen thuộc được đặt cho sân bay
của địa phương là Marco Polo.
Marco Polo là một nhân vật sống vào
khoảng nửa sau thế kỷ XIII cho đến phần tư đầu thế
kỷ XIV (1254-1324), được đánh giá trong Bách khoa
Từ điển là "nhà du lịch và nhà văn nổi tiếng
Italia". Sự nổi tiếng của ông là do những du
ký kể lại về những chuyến thám hiểm các nước Phương
Đông.
Ngay từ năm 17 tuổi, ông đã theo
bố và chú là những "lái buôn thành Venise"
đến tận miền Bắc nước Trung Hoa khi đó còn rất bí
hiểm đối với phương Tây và đang được thống trị bởi
đế chế Nguyên Mông của Đại Hãn Hốt Tất Liệt. Trong
du ký còn kể rằng Marco Polo đã từng lưu lại nhiều
năm ở xứ sở này và nhận một chức quan nhỏ chuyên thu
thuế muối, rồi đi du lịch nhiều nơi khác. Những điều
ông viết, đời sau có người ngờ rằng có nhiều điều
phóng tác thậm chí còn nghi hoặc việc ông làm quan
ở Trung Quốc. Vả lại các cuốn du ký được xuất bản
không phải do ông viết mà do người bạn tù chép lại
từ những lời kể của ông khi bị giam 3 năm ở Genova.
Tuy nhiên những điều được viết trong du ký nói về
nhiều quốc gia ở châu Á như Gruzia, Iran, Mông Cổ,
Trung Hoa, Ấn Độ... và cả vùng Champa của lãnh thổ
nước ta ngày nay, đã làm say mê người châu Âu qua
nhiều thế kỷ, góp phần làm sôi động các con đường
tơ lụa trên đất liền và trên biển, vẫy dụ người phương
Tây đến với phương Đông kỳ thú và trù phú...
Giờ đây tên của nhà thám hiểu lại
được dùng làm đường băng đưa đón những chuyến bay
gắn với thành Venise vẫn giữ được vẻ huyền thoại cổ
xưa giữa một đất nước Italia hiện đại. Từ sân bay,
để tới trung tâm Venise - di sản văn hoá của nhân
loại - phải mất 20 phút trên những chiếc cano-taxi
hay cano-bus rất đặc trưng của miền đất này.
Ấn tượng đầu tiên đến với bất kỳ
ai đặt chân tới Venise sẽ là một đô thị rất cổ mà
vẫn giữ được dáng vẻ như nó đã từng có từ rất nhiều
thế kỷ. Từ trên cano, một người bạn Italia chỉ vào
đất liền nơi hiện lên trên nền trời đường viền của
những ngọn tháp nhà thờ và nhất là tháp chuông lớn
bên Quảng trường San Marco nối dài bởi những toà nhà
cổ nằm sát bờ nước và nói rằng từ hàng trăm năm xưa,
bóng dáng Venise từ xa nhìn vào chẳng hề thay đổi.
Càng đi vào lòng đô thị cổ này càng thấy sự hài hoà
giữa những tiện nghi hiện đại của cuộc sống hôm nay
với cái vỏ kiến trúc cổ xưa được chăm chút từng ly
từng tý. Đi trên đường phố, đặc biệt là trên các dòng
kênh bằng những chiếc thuyền gondola cong vút tựa
như quả chuối tiêu với những tay chèo mặc trang phục
màu đen hay sọc dưa kiểu thuỷ thủ, nhìn lên bờ thấy
những mảng rêu hay những mảng tường lở lói, người
địa phương cho chúng tôi biết rằng tất cả những cái
đó được cố tình duy trì để giữ lại vẻ cổ kính trong
giới hạn an toàn, mọi sự sửa chữa đều phải được phép
của chính quyền và có sự can thiệp của các nhà chuyên
môn.
Nói đến chuyện ngàn năm lại nhớ đến
Thăng Long - Hà Nội quê nhà. Không hề chạnh lòng tự
ti về lịch sử khi liên tưởng đến cái thời Marco Polo
sống ở Trung Hoa, cũng là thời ông cha ta ba lần đánh
thắng giặc Nguyên Mông, và trong du ký của các nhà
thám hiểm, truyền giáo hay thương nhân phương Tây
chẳng đã có người ví von Thăng Long như một "Venise
ở phương Đông" hay sao (cho dù có thậm xưng đi
chăng nữa)... mà chạnh lòng vì di sản của ta mất mát
nhiều quá. Chỉ thấy chồng chất sự huỷ hoại của triều
đại sau đối với triều đại trước...
Nói về cảnh vật và những di tích
của Venise, ngôn ngữ sẽ trở nên bất lực nếu không
được hỗ trợ của các phương tiện trực quan như hội
hoạ hay phim ảnh. Người ta nói rằng muốn biết Venise
chỉ có cách là... phải đến Venise. Do vậy mà khách
du lịch hàng năm đến xứ sở này bình quân tới hơn 5
triệu người...
Nhưng ấn tượng nhất, phải nói đến
những chủ nhân của thành phố cổ này. Từ xa xưa, Venise
giống như Kẻ Chợ thu hút dân tứ xứ. Nhìn trên bản
đồ, nước Italia là một bán đảo có hình thù giống như
một cẳng chân đi giày ủng thò xuống Địa Trung Hải,
thì Venise nằm tít trên phía Bắc phần đất lục địa
gần với Hy Lạp và các quốc gia Tây Âu. Dân tứ chiếng
kéo đến làm ăn và sinh sống tại đây còn có cả người
vùng Ban Căng, Bắc Phi... Người dân ở đây rất ý thức
được cái giá trị phi vật thể của địa danh "Venise"
nên họ biết khai thác triệt để cái vốn cổ ấy. Các
cửa hàng với trang trí nội thất và ánh sáng rất hiện
đại góp phần tôn lên vẻ đẹp của kiến trúc cổ phần
lớn nằm trong phố nhỏ, ngõ nhỏ, thỉnh thoảng lại bắt
gặp một quảng trường nhỏ với vòi phun nước hay những
bức tượng nhỏ... Đây cũng là một thành phố không có
xe cộ, tất cả đều vận động trên đôi chân hay những
con thuyền. Ở Venise rất dễ liên tưởng đến Hội An,
nơi cư dân ý thức được giá trị sinh lợi được thừa
hưởng từ quá khứ nên họ trân trọng và trau chuốt mọi
dấu tích xưa.
Ngày cuối cùng ở Venise (12/3), cả
đoàn đến thăm lãnh đạo địa phương. Cũng như nhiều
công sở, khách sạn hay bảo tàng, Toà thị chính là
một ngôi nhà rất cổ nằm trên bờ Kênh Lớn (Grand Canal).
Ông Phó thị trưởng Mognito với dải băng ba màu của
quốc kỳ Italia (đỏ, trắng và xanh lá cây) vắt ngang
người, ra cầu tàu đón đoàn. Ở một xứ có thể chế đa
đảng, cùng với việc giới thiệu chức vụ là phải nêu
rõ thuộc đảng phái chính trị nào. Cả vùng Veneto cánh
hữu đang cầm quyền, nhưng tại thủ phủ Venise lại thuộc
phái trung tả. Đầu tháng tư tới sẽ có một cuộc bầu
cử mới, ông Thị trưởng đi vắng, ông Phó Thị trưởng
thay mặt tiếp đoàn. Khi tự giới thiệu về mình, ông
Phó Thị trưởng chỉ nói một câu ngắn gọn: "Tôi
thuộc thế hệ Việt Nam".
Đó là thế hệ, như ông thuật lại,
đã tham gia biểu tỏ thái độ của mình với cuộc chiến
tranh của Mỹ tại Việt Nam. Đó là trường đào luyện
tinh thần chính trị của thanh niên Italia nói riêng
và của giới trẻ các nước Tây Âu nói chung. Những thanh
niên năm ấy, nay đều đã ở độ tuổi chín muồi trong
hoạt động chính trị. Ông Phó Thị trưởng nhắc đến các
từ "Việt Nam" hay "Hồ Chí Minh"
như những khẩu hiệu từng hô vang trên đường phố. Ông
còn kể rằng, năm 1994, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đến thăm Venise, thì ông không thể quên được hình
ảnh vị Đại tướng huyền thoại đang loay hoay tập chèo
con thuyền gondola trên dòng kênh thơ mộng... Tiếp
lời ông, một vị giáo sư đại học và ông Chủ tịch Hội
hữu nghị Italia - Việt Nam vùng Veneto cũng nhận mình
là người thuộc "thế hệ Việt Nam"...
Và không chỉ ở Venise, trong suốt
thời gian tiếp xúc với các chính khách ở Rome của
Italia hay ở Brussels và Anvers của Bỉ, London và
Cardiff của Anh, Geneve và Bern của Thuỵ Sĩ, chúng
tôi còn gặp nhiều người "thuộc thế hệ Việt Nam"
nay đã trở thành những chính khách. Chính thực tiễn
cuộc chiến tranh Việt Nam đã là thử thách của một
thế hệ trẻ nay đã trưởng thành... Vì thế Việt Nam
vẫn còn là một ấn tượng, một phần của ký ức. Vì vậy,
dù quan điểm chính trị còn khác nhau, nhưng dường
như ở thế hệ này có một sự chia sẻ, cảm thông hay
nể vì khi đề cập tới vấn đề Việt Nam. Nói cách khác
thời nay không phải nhờ đến những du ký của một Marco
Polo, ý niệm về Việt Nam đến với nhiều quốc gia như
một phần của đời sống chính trị quan hệ đến toàn cầu.
Ngày cuối cùng ở Thuỵ Sĩ, cũng là
điểm kết thúc hành trình. Bà Chủ tịch Hạ viện Liên
bang Thuỵ Sĩ mới gặp đoàn. Bà tâm sự rằng cả nhà bà
có duyên nợ với Việt Nam. Con trai bà là bác sĩ đã
từng qua Việt Nam cả tháng trời để thực hiện các ca
mổ nhân đạo ở Cần Thơ; còn mẹ của bà thì đã từng đứng
ra tổ chức một đêm hoà nhạc để quyên tiền cho Bác
sĩ Phi Phi, người phụ nữ Việt Nam đã dũng cảm đâm
đơn kiện các tập đoàn sản xuất chất độc màu da cam
của Mỹ phải đền bù cho những nạn nhân đau khổ ở Việt
Nam.
Dương Trung Quốc
Theo VietNamNet