Hiếm thứ nào có sức mê hoặc như đồng tiền: Khi lưu thông
nó là mục đích của số đông, lúc hết thời nó trở thành
mục tiêu của những người sưu tầm.
Phố tiền cổ
Một đồng tiền cổ có thể nói về lịch
sử nhiều hơn hẳn hàng trăm pho sách. Tiền cổ mang trong
mình biến cố của những vương triều, sự vinh nhục của
biết bao dòng họ và thậm chí cả triết lý sống của một
dân tộc. Hiếm thứ nào có sức mê hoặc như đồng tiền.
Khi còn giá trị sử dụng nó là mục đích của số đông.
Khi hết thời, nó trở thành mục tiêu của số ít đó là
những người sưu tầm tiền cổ.
Sưu tập tiền cổ là sưu tập tiền kim
loại, tiền giấy hoặc cả hai. Những người chơi thường
sưu tập theo thời gian lưu hành tiền tệ của một quốc
gia, theo các chuyên đề về phong cảnh, hoạ tiết, hoa
văn trang trí hay theo nội dung lịch sử. Xét về bề nổi
tại Hà Nội các con phố cổ như: Hàng Gai, Hàng Ngang,
Hàng Đào được coi là trung tâm mua bán tiền cổ. Chỉ
riêng con phố này đã có không dưới 20 hàng có bán tiền
cổ. Mỗi tuần có vài chục người từ khắp nẻo đưa tiền
cổ (tìm thấy khi khảo cổ, làm nương đào giếng làm nhà…)
về Hà Nội. Tuy nhiên, những thứ bày bán ở đó đa phần
là đồ giả và chỉ phục vụ tây ba lô sang ta du lịch bụi.
Còn tiền cổ thật, nếu có cũng chỉ là loại giá trị thấp
vì “non tuổi” và không hiếm. Dân chơi thứ thiệt chủ
sở hữu của những đồng tiền có mức giá giao dịch cỡ 6
- 7 triệu đồng tiền Việt đến hơn 1000 USD tiền Mỹ thì
chả mấy khi có mặt ở đây: Họ có thế giới của riêng họ.
Đồng tiền đi liền lịch sử
Suốt một ngàn năm Bắc thuộc, người
Việt không có đồng tiền riêng để lưu hành. Năm 968 Ðinh
Tiên Hoàng dẹp tan loạn 12 sứ quân, thành lập nhà Ðinh,
và xưng Ðinh Tiên Hoàng Ðế để mở đầu một kỷ nguyên độc
lập cho nước Việt. Nhà Ðinh đúc tiền lần đầu tiên trong
lịch sử, đó là đồng Thái Bình Thông Bảo đúc năm 970,
mặt sau có chữ Ðinh. Đồng tiền này bằng đồng, hình tròn,
lỗ vuông, biểu tượng cho trời và đất theo quan niệm
của người phương Đông. Quan điểm này được gìn giữ và
phát triển nhất quán trong việc đúc tiền qua các triều
đại vua sau này. Đến triều đại cuối cùng phong kiến
cuối cùng đồng Bảo Ðại Thông Bảo của vua Bảo Ðại vẫn
tuân thủ hình thức này. Hiện đồng tiền cổ nhất Việt
Nam còn được lưu giữ tại phòng truyền thống của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Hai chữ phía sau đồng tiền chỉ loại
tiền, đa số là Thông bảo (nghĩa là đồng tiền thông dụng),
kế đó là Nguyên bảo (tiền mới đầu tiên). Tuy nhiên có
một số loại tiền cổ mang hai chữ chỉ thứ hạng hoặc ý
muốn chủ quan khá lạ lùng. Nhất là tiền đời vua Cảnh
Hưng như Vĩnh bảo (tiền lưu thông mãi mãi), Chí bảo
(tiền cao quý nhất), Đại bảo (tiền có giá trị lớn),
Chính bảo (tiền chính thống), Cự bảo (tiền có giá trị
to), Thuận bảo (tiền kỷ niệm dịp chiếm đóng Thuận Hóa
và lấy súng đồng của chúa Nguyễn ở Thuận Hoá mà đúc
thành tiền). Ngoài ra còn một số tiền được xếp loại
" chưa thể xác định " mang những thứ loại
tiền như những đồng Trần Tân công bảo, Thái Bình thánh
bảo, Thái Bình pháp bảo…
Thông thường, mỗi ông vua khi lên
ngôi đều đánh dấu sự nghiệp của mình bằng việc đổi niên
hiệu mới và phát hành tiền để khẳng định sự chính thống
của vương triều mà mình cai trị. Trong lịch sử cũng
có nhiều chuyện rất buồn cười như: năm 1521, Trần Cảo
nổi binh chiếm Đông Đô trị vì tất cả có bốn ngày mà
vẫn khẩn cấp đúc tiền Thiên Ứng Không Bảo để lưu hành.
Đồng tiền bằng sắt được cho là duy nhất của Việt Nam
là Đại Chính Thông Bảo, đúc cách nay đã 465 năm, dưới
thời Mạc Đăng Dung. Khi đó Mạc Ðăng Dung soán đoạt ngôi
vua của nhà Hậu Lê, sử thần cho rằng nhà Mạc không được
lòng trời nên đúc tiền đồng không thành mà phải đúc
tiền sắt để tiêu dùng. Ðó là lần đầu tiên sử sách nhắc
đến tiền sắt. Tuy vậy, di chỉ khảo cổ hiện đại cho thấy
không có tiền sắt Đại chính Thông Bảo của họ Mạc, mà
chỉ thấy tiền đồng. Và trong tiền cổ Việt Nam có một
số mẫu tiền đồng nhưng lại rỉ sét đỏ khá bất thường
của sắt, nhất là tiền Hồng Ðức Thông Bảo và Minh Ðức
Thông Bảo. Điều có thể dẫn đến giả thiết có thể vào
lúc đó, hợp kim đồng chưa được tinh luyện nên có chứa
nhiều sắt hơn lúc bình thường. Còn tờ giấy bạc đầu tiên
của Việt Nam xuất hiện vào đời nhà Hồ, cách nay gần
600 năm với kỹ thuật in ấn rất thơ sơ, với chủ yếu là
những hình đơn giản như rong biển, con rùa, hay song,
mây… Sau nhà Hồ ở Việt Nam không có triều đại phong
kiến nào in và cho lưu hành tiền giấy.
Các đại gia chơi tiền cổ
Chuyện sưu tầm tiền cổ của mỗi người
mỗi khác. Có người sưu tầm đến với nghiệp này do cha
truyền con nối như ông Nguyễn Anh Huy ở Huế, người thừa
hưởng gia tài và máu “phiêu liêu” với tiền cổ từ cụ
thân sinh Nguyên Xuân Cường. Lại có người coi nghề này
như một cách bảo tồn di sản văn hoá dân tộc như linh
mục Nguyến Bá Thảo ở Mỹ Tho, người chuyên sưu tập tiền
giấy. Có khi lại là sự thích thú của con trẻ như câu
bé Nguyễn Trường Giang ở Hà Nội. Khởi đầu chỉ là những
đồng tiền giấy giá trị thấp đến nay cậu đã có những
đồng tiền cổ khá quý hiếm. Cậu cũng là người được các
bậc tiền bối trong giới sưu tầm tiền cổ đất Hà Thành
ưu ái bởi tấm lòng với tiền cổ và tuổi còn rất trẻ mới
16 tuổi. Người lại đến với việc sưu tầm tiền cổ hoàn
toàn ngẫu nhiên như ông Trần Văn Bùi ở Huế. Lúc ông
Bùi dọn nhà tìm được một ít tiền Đông Dương của bà nội
không kịp đổi lúc giao thời, thấy hay nên cất chơi.
Lâu rồi ông Bùi cũng không thể ngờ rằng những đồ chơi
thủa nhỏ đã theo ông suôt cuộc đời. Ròng rã 25 năm tìm
kiếm, hiện ông Bùi có được một bộ sưu tập đáng nể với
rất nhiều loại tiền khác nhau.
Còn Cụ Nguyễn Bá Đạm, một đại gia “khét
tiếng” của nghề chơi này, lại coi việc sưu tầm là một
thú chơi tao nhã. Đã vào tuổi “ xưa nay hiếm” nhưng
sự đâm mê tiền cổ của cụ vẫn tươi nguyên như thủa ban
đầu. Hiện cụ Đạm là người sở hữu một bộ tiền cổ rất
hoàn chỉnh về cả tiền giấy lẫn tiền kim loại. Cũng đã
có rất nhiều nhà buôn tiền cổ, nhà sưu tầm tiền cổ thế
giới tìm đến cụ ngỏ lời mua lại bộ sưu tập hoặc những
đồng tiền quí nhưng cụ nhất nhất không bán, cho dù họ
đưa ra nhưng cái giá “gây sốc” từ 1400 – 1600USD một
đồng.
Vậy đấy! Chơi tiền cổ cũng phải có
duyên. Đôi khi những cuộc gặp tình cờ lại gợi ý cho
một cuộc tìm kiếm tưởng đi vào ngõ cụt. Có những câu
chuyện tầm phào đưa cay trên mâm rượu lại trở thành
những lý giải đầy khúc triết cho một thắc mắc lâu nay.
Ông Bùi nhớ lại suốt một thời gian dài, ông không hiểu
tại sao các tờ giấy bạc cụ Hồ trong kháng chiến lưu
hành ở thập niên 50 của thế kỷ trước lại không giống
nhau, thậm chí cùng một mệnh giá các tờ bạc lại khác
nhau cả về kích cỡ, giấy in, mực in đến cả hình vẽ.
Việc đó được giải đáp trong một lần ông ra Hội An, ông
được gặp ông Trần Quốc Dụ, nguyên cán bộ in tiền cách
mạng ở Trung Kỳ. Qua trò chuyện, ông Dụ đã đưa ra lời
giải thích hết sức giản dị: Vì tiền in trong thời chiến,
bằng bản khắc gỗ, lại phải di chuyển thường xuyên để
chống phá hoại nên không có tờ nào giống tờ nào cả,
mỗi tờ lại do một tổ in nên việc chúng khác nhau là
chuyện đương nhiên.
Lại có lúc, việc sưu tầm cổ vật khiến
người sưu tầm tìm được “quí vật” như trường hợp nhà
sưu tập Phan Công Thọ - Hà Nội. Ông Thọ có khối tiền
nặng chừng 30kg mang hình một chiếc bình gốm cổ. Việc
có được khối tiền này cũng khá tình cờ, năm 1999 nghe
tin có gia đình tại Bắc Ninh trong lúc đào đất đóng
gạch đã tìm thấy một chiếc bình cổ. Họ ngỡ có vàng của
người xưa chôn dấu nên đã đập vỡ vỏ gốm. Kết quả thu
được chỉ là những đồng tiền cổ có niên đại hàng trăm
năm đã kết dính chặt với nhau thành một khối. Cũng may,
khi ông Thọ tìm được đến nơi vừa kịp ngăn những người
sở hữu khối tiền đập vụn để bán phế liệu. Qua một hồi
mặc cả, thuyết phục cuối cùng ông Thọ đã trở thành chủ
sở hữu khối cổ vật này. Hiện theo đánh giá của các chuyên
gia của Bảo tàng Lịch sử đó là khối tiền có trọng lượng
lớn nhất và có hình dáng độc đáo nhất Việt Nam. Và đã
nhiều lần, Bảo tàng Lịch Sử đã mượn khối tiền này của
ông Thọ để trưng bày trong các chuyên đề của mình.
Còn với nhà báo Nguyễn Mạnh Tùng,
Thời báo Ngân Hàng câu chuyện thật cảm động. Năm 1999,
trong chuyến công tác TP Hồ Chí Minh, lúc rảnh anh vẫn
hay la cà tại các cửa hàng có bán tiền cổ. Phần vì muốn
tìm hiểu cho công việc viết báo, phần vì sưu tầm thêm
tư liệu cho cuốn sách về Tiền giấy Việt Nam mà anh cùng
các cán bộ Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện. Tại đây,
anh Tùng hay bắt gặp một cụ già tuổi ngoại 70 dành hàng
giờ đứng ngắm những đồng tiền cổ và bàn luận với người
chủ sở hữu. Ông tên Phạm Thăng việt Kiều Canada về thăm
quê. Sau này, khi đã được ông tin tưởng mời về nhà anh
Tùng thực sự “ấn tượng” trước bộ sưu tập tiền giấy của
ông. Và hơn hết là tấm lòng của một việt kiều luôn hướng
lòng mình về đất mẹ. Người đã dành cả đời mình để khảo
cứu và viết sách về tiền tệ Việt Nam. Tập 1 của cuốn
sách Tiền tệ Việt Nam, dày cỡ trăm trang đã ra đời.
Tập 2 cũng được ông chẩun bị những chương cuối chuẩn
trước khi hoàn thành với tên gọi: Tiền tệ Việt Nam từ
cách mạng mua thu năm (1945) cho đến nay.
Tiền cổ có nhiều loại, tiền đồng,
tiền kẽm, tiền chì, tiền vàng, tiền bạc và ngay cả tiền
giấy của Hồ Quý Ly. Nhưng đối với giới sưu tầm tiền
cổ bằng kim loại là thông dụng và dễ mua bán và trao
dổi hơn cả. Còn tiền bạc, vàng (nén) rất khó kiếm trong
dân gian. Ngoài ra, còn có một loại tiền đồng loại lớn
được triều Hậu Lê và triều Nguyễn dùng để ban thưởng
cho những người có công lao. Đó là loại tiền mặt ghi
niên hiệu của nhà vua, lưng ghi những câu chúc tụng.
Đúc hình rồng bay lên là tiền Phi Long, biểu tượng của
giầu có và con cháu đầy đàn. Sống lâu trăm tuôi là tiền
Tam Đa, còn đúc hình năm con dơi là tiền Ngũ Phúc… Theo
Giáo Sư Đỗ Văn Ninh, tác giả cuốn tiền cổ Việt Nam (cuốn
sách duy nhất cho đến thời điểm này khảo cứu đầy đủ
nhất về tiền cổ Việt Nam do Viện Sử học xuất bản năm
1992) thì ngoài tiền trong lưu thông còn có “tiền bùa”
để trừ tà hoặc thể hiện những mong muốn của người sở
hữu nó. Đồng tiền đúc hình một con ngựa phi với bốn
chữ “Đường trướng thiên lý” nhằm chỉ một con ngựa hay.
Đồng “Trạng nguyên cập đệ” là mong muốn đỗ đạt cao của
sĩ tử. Còn đồng đúc nổi một đôi nam nữ đang giao hoan
là của những cô gái lầu xanh…
Bài và ảnh: Nguyên Vũ
Theo VietNamNet
|