Giáo
sư Kiều Thu Hoạch đã có nhận xét về "ông bình vôi"
vừa dân dã vừa sang, một cách khái quát như sau: “Chỉ
duy nhất ở Việt Nam mới có bình đựng vôi, và có hàng
trăm mẫu khác nhau. To có, bé có, nhỡ cũng nhiều”. Chính
vì thế, dân chơi gốm cổ thường săn lùng các "ông
bình vôi" dáng độc, men lạ, phù điêu đắp nổi kỳ
dị... nghĩa là chúng thuộc loại có một không hai...
Chuyện lạ về "ông"
bình vôi
Từ xa xưa, trước khi con người tìm
ra kim loại, dụng cụ chủ yếu sử dụng trong săn bắt,
hái lượm, chiến tranh là những dụng cụ bằng đá như:
mảnh tước, bôn, rìu,... Chính từ lý do đó đá được thần
thánh hoá và tục thờ đá ra đời. Sau này, các nhà nghiên
cứu khoa học gọi đó là: “tín ngưỡng đá”.Vôi có nguồn
gốc từ đá được ánh xạ qua tín ngưỡng cổ trở nên thần
hóa.
Vôi trong đời sống người Việt có một
chỗ đứng rất vững chắc và tôn nghiêm. Vôi dùng để ăn
trầu, để sát trùng, trừ tà, đánh gió và đôi khi được
dùng để chế biến thực phẩm. Bình vôi càng để lâu người
ta càng tin bình có thần. Chính vì lẽ đó, những bình
vôi cổ còn được tôn là Ông Bình Vôi.
Không chỉ có vậy, vào mỗi dịp năm mới ngoài cây nêu
ngày Tết thì dưới đất người ta dùng vôi bột vẽ hình
cung tên nhằm trừ ta ma để chủ nhân của ngôi nhà đón
một năm mới nhiều Phúc, Lộc.
Mỗi khi nhà có khách, làng có đám người
dân quê tôi mới nhớ đến "ông bình vôi". Bà
tôi dò dẫm trong bóng tối mờ mờ nơi xó nhà dùng con
dao nạy chút vôi nạc trắng tinh và ươn ướt mang ra phản
để têm trầu mời khách. Bà tôi còn bảo: " ông bình
vôi thiêng lắm, ông trấn giữ ma quỷ không cho chúng
vào nhà và giữ cho các đồ vật chỗ nào ở nguyên chỗ ấy".
Diễn giải theo lối học quốc ngữ của tôi có nghĩa là:
cái bình vôi được coi như vị thần bảo trợ cho gia đình
và được thần hoá đến mức phải kèm theo đại từ nhân xưng
đầy tôn kính: Ông bình vôi.
Hồi nhỏ, nếu tôi lỡ miệng gọi "ông"
là lọ vôi hay cái lọ đựng vôi là bà tôi lại giơ tay
phát nhẹ vào miệng tôi, vừa quở tôi vừa run rẩy: "
Phỉ phui cái miệng mày! xin ông đừng chấp, cháu nó dại
mồm dại miệng...". Mặc dù có "ông bình vôi"
bảo trợ và coi giữ nhưng nhà tôi vẫn bị bọn trộm vặt
thăm viếng: lúc thì mất buồng cau, nải chuối, khi thì
mất con gà, con chó... Những lúc như thế bà tôi chỉ
chép miệng bảo: Khổ thân nó, nó ăn trộm nghĩa là nó
gánh thay tội cho nhà mình...
Đựng vôi lâu ngày, những lớp vôi chết
hoá đá bám chặt vào thành bình và người ta gọi đó là
lớp "cao". Lớp cao này khiến ông bình vôi
đặc ruột lại, bé bụng lại không đựng được vôi nữa. Bà
tôi hay mắng tôi là đồ đặc ruột mỗi khi tôi bị điểm
kém hoặc tôi không chịu nghe lời bà ở trong bóng râm
cho sướng mà cứ chạy nhổng ra đồng săn chuột cùng lũ
bạn chăn trâu, thả bò.
Tôi lờ mờ hiểu rằng bà tôi đang mắng
tôi ngu ngốc, nghịch dại và là đồ vô dụng, vô tích sự.
Nhưng với "ông bình vôi" thì khác hẳn: Khi
ông đặc ruột đến mức chỉ còn đựng được một thìa vôi
nhỏ thì bà tôi lúi húi vào xó nhà thắp ba nén hương
khấn vái để rước ông ra gốc đa đầu làng. Ở đấy có rất
nhiều "ông bình vôi" đặc ruột, người qua kẻ
lại thường cắm một nén hương để cầu tránh tai hoạ. Không
ai trong làng tôi dám đập vỡ "ông bình vôi"
như đập vỡ cái chén, cái bát đã bị sứt mẻ như họ vẫn
thường làm mỗi khi cãi nhau với vợ hoặc với hàng xóm.
Chính vì thế mà trước năm 1975, tại
một số gốc đa, gốc si cổ trong phố cổ Hà Nội như: gốc
đa ở Đền Quán Thánh, gốc si ở phố Hàng Gai, gốc đa ở
đầu dốc Lơ Pho... vẫn còn những ông bình vôi được đặt
kính cẩn dưới gốc. Có nhiều "ông" bị rễ đa,
sễ si cuốn chặt chỉ hở ra chút xíu. Đến nay, mặc dù
những cây đa vẫn còn đó nhưng việc săn lùng bình vôi
cổ khiến cho các gốc đa Hà nội tuyệt nhiên chẳng còn
còn bình vôi nữa. Bởi bây giờ, người ta coi ông bình
vôi cổ có giá trị như vàng.
Bộ sưu tập độc nhất vô nhị
Để phù hợp với mục đích sử dụng, bình
vôi có loại chỉ nhỏ bằng quả quít mang theo người, lại
có loại to bằng quả bưởi bày trên án, trên bàn tiếp
khách. Cũng có loại to cỡ cối đá để luôn ngoài đình
cho cả làng cùng sử dụng mỗi khi làng có đám. Từ nhu
cầu bình vôi trong dân gian, những người thợ thủ công
tài hoa đã chế tác ra các loại bình vôi khác nhau.
Kiểu dáng đời sau nối tiếp đời trước
mỗi ngày một phong phú. Chất liệu cũng dần được cải
tiến từ đất nung, sành, gốm, sứ rồi đồng... Nhưng phổ
biến hơn cả và được giới sưu tầm cất công lùng kiếm
là bình vôi có chất liệu gốm. Màu men của bình vôi gốm
rất khác nhau. Từ men trắng, men lục thời Lý - Trần,
đến men lam, men màu huyết đỉa thời Lê sơ và đến thời
Nguyễn thì có cả một cuộc cách mạng của các các nghệ
nhân làm gốm, chế tác bình vôi...
Ban đầu, bình được làm rất đơn giản
bằng gốm men trắng, bên trên đắp hình Giao long. Đây
là hình khởi nguồn của con rồng sau này. Xung quanh
bình có thể trang trí hình quả cau hay vẽ theo các tích
dân gian. Càng về sau bình vôi càng được làm cầu kỳ
và trở thành vật có tính chất trang trí làm sang cho
phòng khách hơn là giá trị sử dụng. Hình Giao long lúc
này được đắp nổi thành quai bình rất đẹp và công phu.
Quả cau trên bình đôi khi được cách điệu trông như những
con ve đang chực vẫy cánh bay khỏi thân bình.
Ở Hà Nội, đáng nể nhất trong giới sưu
tầm là bộ bình vôi của ông Thọ ở phố Hàm Long. Đây là
bộ bình vôi được đánh giá là cổ nhất, đẹp nhất và đầy
đủ nhất, mang dấu ấn của từng triều đại phong kiến Việt
Nam. Trong bộ sưu tập này, ta có thể bắt gặp những bình
vôi cực hiếm như bình vôi thời Lý, bình vôi màu lam
Mạc (thời Mạc Đăng Dung), bình vôi bằng sứ được đặt
làm tận Trung Quốc... Ông Thọ còn có một cái bình vôi
Bát tràng niên đại trên 200 năm được trang trí hoạ tiết
rất đẹp. Bình vôi bằng sứ sở dĩ hiếm và độc đáo bởi
trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam chỉ
có nhà hậu Lê và nhà Nguyễn là đặt hàng sứ tại Trung
Quốc nhưng với số lượng rất hạn chế. Cũng vì lẽ đó tại
Hà Nội hiện nay chỉ còn có vài bình vôi bằng sứ trong
các bộ sưu tập cá nhân.
Chọn được một bình vôi đẹp không dễ.
Cùng một niên đại nhưng chỉ cần một chút “hỏa biến”
(ý nói việc “thần hỏa” can thiệp trong khi nung) là
giá hoàn toàn khác. Đó cũng là điều kiện để một sản
phẩm gốm trở nên độc nhất và không bao giờ trùng lắp.
Bài và ảnh: Nguyên Vũ
Theo VietNamNet
|